21/09/2011

Thực trạng các doanh nghiệp có hoạt động liên quan đến công trình giao thông và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thuộc Bộ GTVT  Phần I. Thực trạng các doanh nghiệp 1. Số lượng doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thuộc Bộ Theo quy định của Luật Doanh nghiệp, đến ngày 1/7/2010 tất cả các công ty nhà nước hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhà nước đều phải chuyển đổi sang loại hình phù hợp, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Kết quả sắp xếp, chuyển đổi doanh nghiệp năm 2010 như sau: - Chuyển 09 Tổng Công ty sang tổ chức và hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con. - Chuyển 17 công ty mẹ thành công ty TNHH một thành viên. - Chuyển 03 doanh nghiệp nhà nước thuộc Bộ thành công ty TNHH một thành viên. - Chuyển 02 doanh nghiệp thuộc các Trường thành công ty TNHH một thành viên. - Chuyển 13 doanh nghiệp thuộc Cục Hàng hải Việt Nam thành công ty TNHH một thành viên. - Chuyển 06 doanh nghiệp, bộ phận doanh nghiệp thành công ty cổ phần. - Tham mưu cho lãnh đạo Bộ, Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp khi tham gia ý kiến đối với Đề án của các Tập đoàn, Tổng công ty 91. Tính đến thời điểm 31/12/2010 các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thuộc Bộ GTVT gồm: - 66 công ty TNHH một thành viên (35 doanh nghiệp được Bộ quyết định chuyển đổi năm 2010; 9 doanh nghiệp thành viên do các tổng công ty quyết định theo thẩm quyền; 22 doanh nghiệp thuộc Tổng cục Đường bộ Việt Nam được Bộ GTVT quyết định chuyển đổi năm 2009). - 18 công ty nhà nước thuộc diện có khó khăn về tài chính, đang chuyển đổi thành công ty cổ phần theo quy định tại điểm e Khoản 2 Điều 54 Nghị định số 109/2007/NĐ-CP của Chính phủ (thông qua mua bán nợ). 2. Về hoạt động của các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây dựng, bảo trì công trình giao thông 100% vốn Nhà nước do Bộ GTVT là chủ sở hữu Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực liên quan đến công trình giao thông gồm: doanh nghiệp xây lắp; doanh nghiệp tư vấn thiết kế; doanh nghiệp duy tu bảo trì công trình giao thông. a) Các doanh nghiệp xây lắp: Hiện nay, khối các doanh nghiệp xây lắp thuộc Bộ chủ yếu tập trung ở 7 tổng công ty, gồm: Tổng công ty XDCT giao thông 1; Tổng công ty XDCT giao thông 4; Tổng công ty XDCT giao thông 5; Tổng công ty XDCT giao thông 6; Tổng công ty XDCT giao thông 8; Tổng công ty Xây dựng Thăng Long và Tổng công ty Xây dựng đường thủy. b) Các doanh nghiệp duy tu, bảo trì đường bộ, gồm 22 doanh nghiệp thuộc Tổng cục Đường bộ Việt Nam. c) Doanh nghiệp tư vấn (tư vấn thiết kế, tư vấn giám sát) chủ yếu thuộc Tổng công ty Tư vấn thiết kế giao thông vận tải. Như vậy, cho đến thời điểm hiện nay Bộ GTVTcó cơ cấu các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước (là chủ sở hữu nhà nước đối với các doanh nghiệp) hoạt động trên các lĩnh vực: tư vấn, xây lắp và duy tu, bảo trì công trình giao thông đường bộ. Đây là điều kiện thuận lợi trong công tác chỉ đạo và tổ chức thực hiện của Bộ phục vụ cho nhiệm vụ trọng tâm của năm 2011 - Năm tăng cường quản lý chất lượng công trình giao thông. Qua số liệu báo cáo của các tổng công ty, công ty cho thấy, tình hình tài chính của các doanh nghiệp còn khó khăn do vốn nhà nước tại doanh nghiệp hiện quá thấp (bình quân từ 150 tỷ đồng đến 200 tỷ đồng/1 tổng công ty) trong khi phải thực hiện một khối lượng lớn công việc (bình quân khoảng 1.600 tỷ đồng doanh thu/năm/1 tổng công ty). Vì vậy, vốn phục vụ sản xuất kinh doanh chủ yếu là vốn vay ngân hàng, chi phí lãi vay ngân hàng chiếm tỷ trọng đáng kể trong chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt khác, trong các năm 2006 - 2008, các tổng công ty phải gánh chịu và tập trung xử lý tồn tại tài chính từ các năm trước nên ảnh hưởng tới kết quả sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp. Trong thời gian qua, Bộ GTVT đã tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, chấn chỉnh công tác quản lý tại các doanh nghiệp, đẩy mạnh công tác cổ phần hóa, giải quyết tồn tại về tài chính (đánh giá lại nợ, xử lý nợ thông qua Công ty mua bán nợ và Tài sản tồn đọng của doanh nghiệp - Bộ Tài chính). Do vậy, đến nay một số tổng công ty thuộc khối xây lắp của Bộ đã có kết quả sản xuất kinh doanh khá như Tổng công ty XDCT giao thông 4, Tổng công ty XDCT giao thông 5. Tuy nhiên, vẫn còn một số tổng công ty gặp khó khăn về tài chính. Đồng thời, thực hiện một số quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu được Chính phủ giao đối với các doanh nghiệp, Bộ GTVT đã chỉ đạo các doanh nghiệp xây dựng chiến lược phát triển, cơ cấu tổ chức, ngành nghề kinh doanh theo đúng mục tiêu, phù hợp năng lực của doanh nghiệp. Theo đó, trong sản xuất kinh doanh mỗi doanh nghiệp thực hiện theo nhóm ngành nghề, gồm: nhóm các ngành nghề chính (xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, cầu, đường bộ, cầu cảng; nhóm các ngành nghề phụ trợ, phục vụ cho các ngành nghề chính (sản xuất vật liệu xây dựng, sắt thép, tư vấn thiết kế, tư vấn giám sát, khảo sát công trình…) và một số ngành nghề khác được pháp luật cho phép. Các doanh nghiệp đều cố gắng tập chung hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư công nghệ, kỹ thuật mới, hiện đại để phát triển mạnh trong nhóm các ngành nghề chính, vì đó là các ngành nghề truyền thống, là thế mạnh, tạo nên thương hiệu cho các doanh nghiệp giao thông vận tải; đồng thời quan tâm, phát triển các ngành nghề có tính phụ trợ, phục vụ tích cực cho ngành nghề chính; tận dụng các cơ hội thích hợp để phát triển đa dạng hóa ngành nghề, tạo nên bước đột phá để doanh nghiệp vượt qua những giai đoạn khó khăn, tạo đà đầu tư, củng cố, phát triển ngành nghề chính (như việc đầu tư vào hoạt động trong lĩnh vực bất động sản, địa ốc, xây dựng hạ tầng khu đô thị, khu công nghiệp của Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông 5; việc đầu tư xây dựng nhà máy thủy điện theo hình thức BOO của Tổng công ty XD công trình giao thông 4…). Mặt khác, nhiều doanh nghiệp đã tập trung tăng cường công tác quản trị doanh nghiệp, kiểm soát chặt chẽ công tác đầu tư, sản xuất kinh doanh hiệu quả. Qua tổng hợp đánh giá từ báo cáo cho thấy một số doanh nghiệp kinh doanh có lãi, tài chính ổn định như: Công ty mẹ - Tổng công ty Tư vấn thiết kế giao thông vận tải; Công ty mẹ - Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông 5, các công ty thuộc Tổng cục Đường bộ Việt Nam... Tuy nhiên, vẫn còn doanh nghiệp hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, như: Tổng công ty Xây dựng đường thủy, Công ty Vận tải xây dựng và một số doanh nghiệp thành viên của các tổng công ty thuộc khối xây lắp. Do đặc thù hoạt động trong lĩnh vực xây dựng hạ tầng giao thông (có tính cạnh tranh cao, vốn điều lệ thấp, nợ đọng nhiều, chi phí lãi vay ngân hàng lớn), nên các doanh nghiệp có hệ số nợ cao (trên 5 lần); tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu thấp (khoảng 0,89%) cá biệt có những doanh nghiệp có hệ số nợ đến trên 10 lần, có tổng công ty trên báo cáo hợp nhất đã âm vốn chủ sở hữu (Tổng công ty Xây dựng đường thủy). Mặc dù các tổng công ty đã có nhiều cố gắng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tích cực trong công tác đổi mới doanh nghiệp góp phần ổn định tài chính từng bước kinh doanh có lãi nhưng nhìn chung vẫn các tổng công ty này vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. 3. Đánh giá những mặt được, chưa được của doanh nghiệp Thực hiện nhiệm vụ được giao, trong những năm qua, các doanh nghiệp của Ngành GTVT đã đem lại kết quả to lớn cho toàn xã hội: - Nhiều công trình giao thông đã hoàn thành đưa vào sử dụng đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đáp ứng được nhu cầu đi lại của nhân dân, phục vụ cho an ninh quốc phòng, đáp ứng nhu cầu hội nhập khu vực và quốc tế. Giải quyết được nhiều vấn đề cho xã hội: tạo ra công ăn việc làm cho hàng vạn người lao động, góp phần xóa đói giảm nghèo… - Khoa học công nghệ phát triển mạnh, đặc biệt trong xây dựng cầu, đường, việc phát triển khoa học công nghệ phần lớn do các doanh nghiệp tư vay vốn để đầu tư, đổi mới trang thiết bị, công nghệ đáp ứng được nhu cầu kinh doanh. Đến nay, các doanh nghiệp của ngành đã đủ khả năng để thi công những công trình kỹ thuật phức tạp, những sản phẩm công nghiệp chất lượng cao và đã bước đầu cạnh tranh được trong thị trường khu vực. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, các DNNN thuộc Bộ GTVT còn những mặt hạn chế: - Quy mô còn nhỏ, cơ cấu còn nhiều bất hợp lý, vị trí và vai trò của công ty mẹ còn hạn chế, vai trò của người đại diện phần vốn nhà nước tại một số doanh nghiệp chưa cao; trình độ công nghệ mới, tiên tiến còn hạn chế, kết quả sản xuất kinh doanh chưa tương xứng với các nguồn lực đã có và sự hỗ trợ, đầu tư của nhà nước. hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh còn thấp, nợ tồn đọng không có khả năng thanh toán còn cao. - Khối các doanh nghiệp xây dựng cơ bản hiệu quả kinh doanh, sức cạnh tranh chưa cao, tình trạng kinh doanh kém hiệu quả còn phổ biến, một số các doanh nghiệp kinh doanh còn thua lỗ. - Một số các đơn vị có lỗ kinh doanh lũy kế từ các năm trước chưa được giải quyết bù đắp hết, thì lại phát sinh thêm lỗ năm nay, dẫn đến doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính, không thanh toán được các khoản nợ đến hạn. - Tại một số các doanh nghiệp trong quản lý sản xuất kinh doanh, quản lý tài chính còn yếu kém, đã dẫn đến có nhiều đơn vị kinh doanh bị thua lỗ, không đảm bảo được nguồn vốn nhà nước giao, tình hình tài chính mất cân đối lớn, lỗ lũy kế lớn. - Tài sản của các DNNN thiếu, nguồn vốn hình thành TSCĐ chủ yếu phải vay ngân hàng, một số TSCĐ nhập khẩu từ nước ngoài với giá quá cao nhưng lại không phát huy được hết công suất. - Hiệu ứng sử dụng TSCĐ của các tổng công ty còn thấp, một số thiết bị chưa phát huy được hiệu quả do việc lựa chọn chủng loại thiết bị, điều kiện hoạt động, giá cả chưa phù hợp hoặc chưa cân đối với khả năng tài chính, quy mô hoạt động của đơn vị. Việc tận dụng thiết bị cũ, công nghệ cũ, phương thức quản trị doanh nghiệp theo suy nghĩ, tư duy dập khuôn, lối mòn dẫn đến hạn chế, trong đó có ảnh hưởng đến tiến độ và một số chất lượng công trình. - Về chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn Nhà nước tại nhiều doanh nghiệp chưa cao, như: Tổng Công ty xây dựng công trình giao thông 4: 8,23%; Tổng công ty xây dựng Thăng Long :5,22%. Nhìn chung, mặc dù còn một số mặt hạn chế như đã nêu trên nhưng các doanh nghiệp nhà nước Ngành GTVT trong những năm qua đã có nhiều cố gắng vươn lên, hoạt động có hiệu quả, có khả năng cạnh tranh, thích ứng với cơ chế thị trường và giữ được vai trò chủ đạo của DNNN trong Ngành GTVT. Phần II: Các giải pháp thực hiện năm 2011 - năm tăng cường quản lý chất lượng công trình giao thông Để thực hiện đúng các quy định của Pháp luật hiện hành, đồng thời, nhằm góp phần thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của năm 2011 - năm tăng cường quản lý chất lượng công trình giao thông, Bộ GTVT kiến nghị các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp cần triển khai một số giải pháp như sau:: I. Đối với các doanh nghiệp A. Về nhận thức 1. Các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thuộc Bộ nói chung, các doanh nghiệp thuộc khối xây dựng cơ bản nói riêng phải tiếp tục quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng về vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước: Nghị quyết Trung ương 3, Khóa IX xác định: ”Kinh tế nhà nước có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Doanh nghiệp nhà nước (gồm doanh nghiệp nhà nước giữ 100% vốn và doanh nghiệp nhà nước giữ cổ phần chi phối) phải không ngừng được đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế”. 2. Về quản trị doanh nghiệp Hiện nay, một số doanh nghiệp vẫn coi quản trị doanh nghiệp là quản trị kinh doanh, quản trị doanh nghiệp chỉ là hoạt động quản lý điều hành của doanh nghiệp trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thuộc nội bộ doanh nghiệp (nhân sự, tài chính, tiền lương, sản xuất...). Tuy nhiên, khi đất nước đã hội nhập quốc tế, nhận thức về quản trị doanh nghiệp cần được hiểu theo thông lệ quốc tế, ngoài những vấn đề thuộc nội bộ doanh nghiệp, quản trị doanh nghiệp còn liên quan đến đảm bảo quan hệ của doanh nghiệp với chủ sở hữu và các bên có liên quan hướng tới thúc đẩy tính minh bạch và năng lực chịu trách nhiệm, hình thành một cơ chế giám sát hiệu quả. Quản trị doanh nghiệp gắn chặt và bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu, người lao động, đối tác, khách hàng của doanh nghiệp. 3. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh Phổ biến, triển khai thực hiện các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp theo loại hình doanh nghiệp mới, trước hết phải tuân thủ các quy định từ Điều 63 đến Điều 76 của Luật Doanh nghiệp áp dụng đối với công ty TNHH một thành viên, đặc biệt, trong quan hệ với Chủ sở hữu và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. B. Các nhiệm vụ cụ thể Đề nghị các đơn vị tiếp tục: 1. Triển khai thực hiện Chỉ thị số 01/CT-BGTVT ngày 04/01/2011 của Bộ trưởng Bộ GTVT về các giải pháp nhằm tăng cường thực hiện vai trò của chủ sở hữu, nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp thuộc Bộ GTVT. Tập trung nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp, biểu dương, nhân rộng các mô hình quản trị doanh nghiệp, giám đốc quản trị doanh nghiệp tiêu biểu, có hiệu quả. Nghiên cứu xây dựng tiêu chí giám đốc quản trị doanh nghiệp hiệu quả, ngoài các tiêu chí về kinh tế, tài chính còn phải có tiêu chí về an toàn, chất lượng công trình. 2. Có trách nhiệm chủ động nghiên cứu, xây dựng các chương trình, nội dung cụ thể, kế hoạch nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp (về công tác tổ chức, cán bộ; đào tạo nguồn nhân lực; công tác bảo hộ lao động; đào tạo, huấn luyện về bảo hộ lao động…), báo cáo, đề xuất với Bộ Giao thông vận tải. 3. Thực hiện kế hoạch sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, chủ yếu là công tác chuẩn bị các bước để thực hiện cổ phần hóa công ty mẹ, các công ty con theo quy định tại Quyết định số 177/QĐ-TTg ngày 29/01/2010 của Thủ tướng Chính phủ (Tổng công ty XDCTGT 1, 4, 5, 6, 8, Thăng Long, XD đường thủy…). 4. Nghiên cứu, xây dựng các giải pháp để nâng cao năng suất lao động, đảm chất lượng các công trình giao thông. Tập trung đầu tư máy móc thiết bị phục vụ thi công, duy tu, bảo trì công trình giao thông; đầu tư công nghệ mới, đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho quản lý và sản xuất kinh doanh, chiến lược phát triển của doanh nghiệp. 5. Đối với các doanh nghiệp thi công phải thực hiện đúng, đầy đủ các biện pháp an toàn, trang bị đầy đủ các thiết bị an toàn, trang bị phương tiện bảo vệ cá nhân cho người lao động theo đúng quy định. II. Đối với các cơ quan tham mưu, giúp việc Bộ trưởng Đề nghị các cơ quan: 1. Tiếp tục hướng dẫn các doanh nghiệp hoàn chỉnh Điều lệ tổ chức và hoạt động; đề xuất phương án thành lập mới, phương án đổi mới, sắp xếp chuyển đổi, cổ phần hóa theo quy định…để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. 2. Trong kiểm tra, giám sát Các Cục, Vụ căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao phối hợp với các cơ quan có liên quan (Công đoàn Giao thông vận tải Việt Nam, Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp) tổ chức kiểm tra, làm việc với các đơn vị, đặc biệt trong công tác bảo hộ lao động. 3. Trong việc tổ chức đánh giá, tổng kết, thi đua khen thưởng Vụ Tổ chức cán bộ sẽ phối hợp với cơ quan, đơn vị trong việc tổng kết, đánh giá và tổng hợp công tác thi đua khen thưởng các đơn vị, cá nhân có thành tích trong công tác, đặc biệt trong các phong trào thi đua của năm 2011. 4. Trong việc xây dựng thể chế, chính sách Trong quá trình thực hiện, các cơ quan nghiên cứu, kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền để từng bước hoàn thiện cơ chế liên quan đến tổ chức hoạt động của doanh nghiệp, về mô hình quản lý, giám sát của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp...
Nguồn: website Bộ GTVT

ĐƯỜNG DÂY NÓNG

Điện thoại:  +84-(0)24.37683191
+84-(0)914689576
Thời gian tiếp công dân:  Từ thứ 2 đến thứ 6 hàng tuần
- Sáng từ: 8 giờ 00 phút đến 11 giờ 30 phút
- Chiều từ: 13 giờ 30 phút đến 17 giờ 00 phút.
Lịch tiếp công dân:  - Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam tiếp công dân định kỳ một ngày trong một tháng vào ngày thứ Hai của tuần cuối tháng
- Cán bộ được giao nhiệm vụ tiếp công dân thực hiện tiếp công dân từ thứ 2 đến thứ 6 hàng tuần.

HÌNH ẢNH & VIDEO

LIÊN KẾT WEBSITE

THỐNG KÊ TRUY CẬP

    • Tổng số :24307220
    • Online: 243