18/09/2013

TS. PHẠM NGỌC SƠN - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển&Hải đảo VN ThS. HOÀNG NHẤT THỐNG - Văn phòng Tổng cục Biển&Hải đảo VN Việt Nam sở hữu vùng biển rộng lớn, nhiều đảo với tài nguyên biển đa dạng, phong phú, là tiền đề thuận lợi để phát triển các ngành khai thác biển. Tuy nhiên, hiện nay quy mô kinh tế biển của nước ta còn nhỏ bé, chưa tương xứng với tiềm năng; phương thức khai thác kinh tế biển chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ, chú trọng nhiều vào khai thác các dạng tài nguyên vật chất (sản lượng, số lượng), từ đó dẫn đến tình trạng khai thác quá mức, gây lãng phí tài nguyên biển, làm cho một số dạng tài nguyên sẽ sớm cạn kiệt. Để các ngành khai thác biển mang lại hiệu quả cao, bền vững đòi hỏi phải chú trọng các phương thức khai thác tài nguyên ở dạng phi vật chất, phi vật thể (giá trị thương hiệu biển, giá trị vị thế của không gian biển, giá trị dịch vụ của các hệ sinh thái...). Tiếp cận công tác xây dựng thương hiệu các ngành khai thác biển là một trong những vấn đề cần được quan tâm trong phát triển kinh tế biển bền vững ở nước ta hiện nay. Biển Việt Nam chứa đựng nguồn tài nguyên đa dạng, phong phú, là nền tảng để phát triển kinh tế biển Biển Việt Nam rộng gấp hơn 3 lần diện tích đất liền với trên 3.260km bờ biển cùng hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ, trải dài 15 vĩ độ từ Bắc xuống Nam, nằm trong vùng có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm. Vì vậy, vùng biển Việt Nam chứa đựng nguồn tài nguyên rất đa dạng, phong phú, bao gồm cả tài nguyên sinh vật, tài nguyên phi sinh vật và tài nguyên vị thế. Về tài nguyên sinh vật: Đến nay, đã xác định được gần 12.000 loài sinh vật biển cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình, thuộc 6 vùng đa dạng sinh học biển khác nhau. Đặc biệt, ở vùng bờ tập trung hàng trăm cửa sông, đầm phá, vũng vịnh, các đảo và quần đảo... tạo nên một hệ thống các loại hình sinh cảnh phức tạp, đa dạng và hiện diện đa dạng các hệ sinh thái: bãi triều lầy, rừng ngập mặn, cửa sông, đầm phá, vũng vịnh nhỏ, rạn san hô, châu thổ, bãi cát, bãi bùn triều, nước trồi, đầm nuôi thủy sản nước lợ, đất ngập nước ven biển... Một số hệ sinh thái có năng suất sinh học cao là rạn san hô, thảm cỏ biển và rừng ngập mặn. Trên các hải đảo còn phát hiện 1.290 loài động thực vật. Đa dạng sinh học của các hệ sinh thái biển là nền tảng cho việc phát triển bền vững một số ngành kinh tế biển dựa vào tài nguyên thiên nhiên như du lịch, thủy sản, y dược biển. Về tài nguyên phi sinh vật: Hiện nay, trong vùng biển Việt Nam đã xác định khoảng 35 loại hình khoáng sản có quy mô trữ lượng khai thác khác nhau từ nhỏ đến lớn, thuộc các nhóm: nhiên liệu (nổi bật là dầu khí với trữ lượng khoảng 3- 4 tỷ tấn dầu quy đổi), kim loại, vật liệu xây dựng, đá quý và bán quý, khoáng sản lỏng. Dọc ven biển đã phát hiện được các sa khoáng khoáng vật nặng của các nguyên tố hiếm quý như titan, ziacon và xeri. Biển nước ta còn có tiềm năng băng cháy, tài nguyên nước biển, đất ven biển, gió, năng lượng thủy triều, năng lượng sóng và dòng chảy cũng rất lớn. Đặc điểm địa hình ven biển nhiều đảo, bờ biển dài khúc khuỷu, nhiều cửa sông, các mũi nhô và vũng, vịnh, bãi cát... là tiềm năng để nước ta phát triển các loại hình du lịch biển, hàng hải. Về tài nguyên vị thế: Việt Nam có lợi thế mặt tiền hướng biển và biển chiếm vị trí địa chính trị rất quan trọng trong khu vực Biển Đông và thế giới với tuyến hàng hải quốc tế lớn từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương cắt qua. Các cảng biển lớn và các trung tâm kinh tế trọng điểm “hướng biển” giúp cho quá trình đô thị hóa nhanh, mạnh và tạo ra các cực phát triển quan trọng quyết định bình đồ phát triển kinh tế biển, ven biển của đất nước. Quan hệ giữa các cấu trúc không gian kinh tế được xem là tiềm năng vị thế quan trọng trong tổ chức lãnh thổ phát triển kinh tế biển của đất nước. Vùng biển rộng lớn ở phía ngoài (gấp hơn 3 lần diện tích đất liền) là không gian đặc biệt quan trọng để phát triển giao thông đường biển, các hoạt động đánh bắt thủy hải sản trên biển, khai thác dầu khí, khai thác khoáng sản rắn trên thềm lục địa, đồng thời sẽ là nơi diễn ra các hoạt động hợp tác và hội nhập kinh tế biển sôi động giữa nước ta với thế giới. Như vậy, biển đã ưu đãi cho nước ta nguồn tài nguyên đa dạng, phong phú, tạo điều kiện để phát triển nhiều ngành khai thác biển. Xây dựng thương hiệu các ngành khai thác biển để phát triển kinh tế biển hiệu quả, bền vững Mặc dù tài nguyên biển đa dạng và phong phú, song phát triển kinh tế biển của Việt Nam vẫn còn khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng của biển. Với xu hướng chung của thế giới coi thế kỷ XXI là “Thế kỷ của đại dương”, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Khóa X đã ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Chiến lược đã đưa ra mục tiêu “Đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển”, “kinh tế trên biển và ven biển đóng góp khoảng 53 - 55% tổng GDP của cả nước”. Trong đó, Chiến lược xác định “Nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao”. Chiến lược còn định hướng phát triển các ngành kinh tế biển chủ chốt đến năm 2020, phát triển thành công, có bước đột phát về kinh tế biển, ven biển: 1) Khai thác, chế biến dầu, khí; 2) Kinh tế hàng hải; 3) Khai thác và chế biến hải sản; 4) Du lịch biển và kinh tế hải đảo; 5) Xây dựng các khu kinh tế, các khu công nghiệp tập trung và khu chế xuất ven biển gắn với phát triển các khu đô thị ven biển. Phát triển kinh tế biển bền vững chính là sự phát triển các ngành khai thác biển với những phương thức khai thác khôn khéo, hợp lý, không làm lãng phí và cạn kiệt tài nguyên biển, có hiệu quả kinh tế cao, bảo vệ tốt môi trường biển, hải đảo. Do vậy, phát triển kinh tế biển bền vững phải chú ý đến chất lượng và lợi ích lâu dài của các dạng tài nguyên biển, hải đảo.
Xây dựng và phát triển thương hiệu biển Việt Nam chính là một trong những phương thức khai thác biển khôn khéo, làm gia tăng giá trị của tài nguyên biển, bảo vệ môi trường biển, thúc đẩy phát triển kinh tế biển hiệu quả, bền vững. Thương hiệu biển chính là sự cảm nhận về biển Việt Nam cùng với con người, cộng đồng cư dân ven biển; sản vật, sản phẩm biển Việt Nam; ngành nghề, lĩnh vực, hoạt động, dịch vụ và tổ chức, địa phương, địa danh có liên quan tới biển Việt Nam được hình thành bởi mọi trải nghiệm có liên quan, khi chúng tạo được dấu ấn rõ ràng nhằm thiết lập một chỗ đứng riêng trong tâm trí cộng đồng trong nước và quốc tế. Thương hiệu biển sẽ quảng bá tiềm năng biển đảo Việt Nam với những điểm khác biệt, nổi bật để biển Việt Nam đi vào tâm trí bạn bè thế giới. Qua đó, các giá trị của biển được khẳng định, được nâng tầm tương xứng với tiềm năng vốn có. Do đó, có thể coi thương hiệu biển Việt Nam là một phương thức khai thác tài nguyên kiểu mới nhằm thúc đẩy tìm kiếm giá trị, lợi ích từ biển theo hướng bền vững. Thương hiệu biển là điều kiện cần để khai thác có hiệu quả, bền vững nguồn lợi của biển; đồng thời cũng là biện pháp quan trọng và cần thiết để quảng bá, thu hút các nguồn lực bên ngoài để phát triển các ngành khai thác biển trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Xây dựng và phát triển thương hiệu các ngành khai thác biển là một quá trình cũng như thực hiện chuỗi các hoạt động, do đó cần thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau: Thứ nhất, hoàn thiện thể chế chính sách, pháp luật về quản lý biển và hải đảo Quản lý về biển và hải đảo theo ngành, lĩnh vực trong điều kiện hệ thống chính sách, pháp luật về biển, đảo còn thiếu đồng bộ và chồng chéo khiến việc quản lý khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo còn nhiều bất cập. Để khai thác có hiệu quả tài nguyên biển đòi hỏi phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế về quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo. Trước hết là cần tập trung xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Biển Việt Nam nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, phục vụ cho việc sử dụng, quản lý, bảo vệ các vùng biển, đảo và phát triển kinh tế biển của Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế và hợp tác quốc tế về biển. Bên cạnh đó, cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện dự thảo Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo để thể chế hóa phương thức quản lý tổng hợp dựa trên tiếp cận hệ sinh thái, bảo đảm nguyên tắc không làm thay quản lý ngành mà đóng vai trò điều phối, phối hợp các hoạt động quản lý ngành; giúp khắc phục các xung đột, mâu thuẫn trong quản lý ngành, góp phần sử dụng hợp lý, hiệu quả và bảo vệ tài nguyên, môi trường và các hệ sinh thái biển. Đặc biệt, cần đẩy mạnh công tác phối hợp đồng bộ giữa các Bộ, ngành và địa phương ven biển trong quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; triển khai thực hiện các quy định về giao khu vực biển để khai thác, sử dụng tài nguyên; sớm hoàn thiện khung pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo. Xây dựng cơ chế, chính sách về bảo đảm sinh kế bền vững cho cộng đồng dân cư ven biển, trên đảo; cơ chế, chính sách khuyến khích bảo vệ, phục hồi các hệ sinh thái biển như rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ biển; chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp áp dụng công nghệ sạch trong quá trình khai thác tài nguyên biển và hải đảo. Hệ thống thể chế chính sách, pháp luật về quản lý biển và hải đảo cũng cần phải được hoàn thiện theo hướng đảm bảo phù hợp với luật pháp quốc tế liên quan đến biển mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia... Việc hoàn thiện thể chế chính sách, pháp luật về quản lý biển và hải đảo sẽ tạo cơ sở pháp lý cho việc khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo nói chung và là yếu tố quan trọng để các ngành khai thác biển tổ chức xây dựng và phát triển thương hiệu biển cho ngành mình. Thứ hai là, sớm quy hoạch sử dụng tài nguyên biển và hải đảo Tài nguyên biển là tài nguyên chia sẻ do nhiều ngành cùng tham gia khai thác. Tuy nhiên, hiện nay việc khai thác tài nguyên biển, hải đảo ở nước ta vẫn thực hiện theo quy hoạch riêng của từng ngành. Chính vì vậy dẫn đến hệ quả là làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn lợi ích giữa các ngành khai thác biển cũng như dẫn đến khai thác quá mức, gây lãng phí, cạn kiệt tài nguyên. Để đảm bảo sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường biển-hải đảo trong quá trình phát triển kinh tế biển cần sớm tổ chức quy hoạch sử dụng tài nguyên biển và hải đảo. Đó là quy hoạch mang tính liên ngành, lĩnh vực, địa phương trong việc thúc đẩy phát triển, khai thác sử dụng tài nguyên biển và hải đảo phù hợp với các chiến lược chung, đảm bảo sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên này. Quy hoạch sử dụng tài nguyên biển và hải đảo đảm bảo tính thống nhất, tính hệ thống, phù hợp với đặc điểm, vị trí địa lý, quy luật tự nhiên của các vùng biển, vùng ven biển, hải đảo và dựa trên chức năng sử dụng không gian biển và vùng bờ. Việc phân vùng không gian không phủ định các hoạt động của các ngành khác mà ngược lại việc phân vùng này sẽ tạo nên sự phát triển hài hòa của các ngành, tạo nên giá trị bảo tồn lâu dài của vùng biển và vùng bờ. Phân vùng không gian chính là một phương cách thực tế để hình thành và thiết lập phương án sử dụng không gian hợp lý hơn và giải quyết các mối tương tác giữa phương thức sử dụng nhằm cân bằng giữa nhu cầu phát triển với yêu cầu bảo vệ các hệ sinh thái biển và đạt được các mục tiêu kinh tế-xã hội theo quy hoạch. Quy hoạch sử dụng tài nguyên biển và hải đảo sẽ tạo không gian phù hợp cho hoạt động của từng ngành khai thác biển. Do vậy, nó sẽ giúp các ngành khai thác biển sử dụng hiệu quả, bền vững tài nguyên biển cũng như góp phần thúc đẩy phát triển thương hiệu biển cho từng ngành. Thứ ba là, xây dựng chiến lược phát triển thương hiệu cho từng ngành khai thác biển Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, dưới tác động của thị trường, việc phát triển các ngành khai thác biển tiếp cận dưới góc độ xây dựng và phát triển thương hiệu biển của ngành là cần thiết để quảng bá hiệu quả các nét đặc thù nhằm thu hút được các nguồn đầu tư và chiếm lĩnh thị trường. Hơn nữa, các ngành khai thác biển quan tâm không chỉ là các sản phẩm của ngành mà cần xây dựng chiến lược phát triển và quảng bá thương hiệu ngành ra bên ngoài. Xây dựng và phát triển thương hiệu biển là một quá trình. Do vậy, các ngành khai thác biển cần hoạch định và triển khai chiến lược phát triển thương hiệu biển cho từng ngành cụ thể (xác định các mục tiêu cần hướng tới trong quá trình khai thác biển, lựa chọn phát triển sản phẩm, xây dựng tiêu chí chất lượng sản phẩm, hình ảnh, biểu trưng, thông điệp về biển, phương thức quảng bá ra thị trường…). Xây dựng chiến lược phát triển thương hiệu cho các ngành khai thác biển cần chú ý đặt trong mối quan hệ tương hỗ với xây dựng thương hiệu cộng đồng biển đảo, thương hiệu địa danh biển đảo, thương hiệu doanh nghiệp khai thác biển và thương hiệu sản vật, sản phẩm biển. Như vậy, tiếp cận góc độ xây dựng thương hiệu đối với các ngành khai thác biển là một trong những nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế biển bền vững. Thương hiệu biển không chỉ là điều kiện sống còn đối với các doanh nghiệp, các ngành khai thác biển mà thương hiệu biển còn có vai trò quan trọng làm tăng giá trị tài nguyên biển, thu hút nguồn lực khai thác bền vững, hiệu quả tiềm năng tài nguyên biển cũng như quảng bá hình ảnh biển Việt Nam với quốc tế. (Bài viết có tham khảo từ một số nguồn tài liệu)

ĐƯỜNG DÂY NÓNG

Điện thoại:  +84-(0)24.37683191
+84-(0)914689576
Thời gian tiếp công dân:  Từ thứ 2 đến thứ 6 hàng tuần
- Sáng từ: 8 giờ 00 phút đến 11 giờ 30 phút
- Chiều từ: 13 giờ 30 phút đến 17 giờ 00 phút.
Lịch tiếp công dân:  - Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam tiếp công dân định kỳ một ngày trong một tháng vào ngày thứ Hai của tuần cuối tháng
- Cán bộ được giao nhiệm vụ tiếp công dân thực hiện tiếp công dân từ thứ 2 đến thứ 6 hàng tuần.

HÌNH ẢNH & VIDEO

LIÊN KẾT WEBSITE

THỐNG KÊ TRUY CẬP

    • Tổng số :24307165
    • Online: 188